Lịch sử phát triển ngành công nghiệp dược hiện đại (Phần 3)

Sự điều chỉnh, đánh giá lại và tăng trưởng của xã hội giai đoạn 1960 – 1980

Từ năm 1960 đến năm 1980, ngành công nghiệp Dược trở thành một trong những ngành quan trọng trong lĩnh vực khoa học, y tế, chính trị và thị trường. Bên cạnh đó, sự tiến bộ về mặt y học đã giúp chúng ta có thể xác định được sự ngăn chặn của một chất cụ thể lên quá trình sinh lý, từ đó có thể tiếp cận tới việc thử nghiệm và phát triển thuốc.

Những đổi mới lớn đã đem đến việc giảm tác dụng phụ của thuốc tim mạch ban đầu là thuốc hạ huyết áp và thuốc chẹn beta vào những năm 1960, tiếp theo là thuốc chẹn kênh Calci, thuốc ức chế men chuyển và thuốc giảm nồng độ Cholesterol vào những năm 1970 – 1980; thuốc an thần, chống trầm cảm, và kháng histamin; thuốc chống viêm không steroid, thuốc tránh thai; các liệu pháp điều trị ung thư các phương tiện kiểm soát triệu chứng của bệnh Parkinson và cơn hen suyễn.

Tại Mỹ, các thử nghiệm lâm sàng được tiêu chuẩn hóa cao hơn với sự giám sát chặt chẽ của FDA. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia châu Âu và các quốc gia khác duy trì hệ thống linh hoạt hơn, cho phép thuốc có mặt sớm trên thị trường thông qua sự theo dõi của bác sĩ về tác dụng phụ. Điều này đã dẫn đến tình trạng “drug lag” (một tình trạng nói lên sự chậm trễ trong thị trường thuốc) khiến cho các công ty có trụ sở tại Mỹ chuyển qua nghiên cứu thêm các dòng sản phẩm khác như nước hoa, mỹ phẩm và các sản phẩm tiêu dùng khác.

Từ thời bác sĩ Paul Ehrlich, các nhà hóa học đã hướng đến việc thiết kế thuốc phù hợp với cấu trúc phân tử và khái niệm “thiết kế hợp lý” đã trở thành hiện thực vào những năm 1970. Trong lĩnh vực thiết kế hợp lý, chất nền hoặc thụ thể của các enzym, hormon hay chất dẫn truyền thần kinh có liên quan đến 1 phần bệnh được chọn là kiến thức cơ sở trong quá trình sinh hóa và sinh lý. Sau đó, các nhà hóa học nghiên cứu các hợp chất có thể chặn chức năng của các phân tử mục tiêu đã chọn. Thay vào đó, hoặc đồng thời, việc tìm kiếm được thực hiện giữa các nguồn tự nhiên, bao gồm các chất được tạo ra bởi vi sinh vật có tác dụng sinh học mong muốn.

Dựa trên cơ sở dữ liệu về mối quan hệ cấu trúc – tác động mà các nhà hóa học đã xây dựng, các nhà nghiên cứu tiến hành tìm ra hoạt chất chính từ quá trình này và chuyển chúng thành dạng bào chế thích hợp. Với sự hợp lý trong ý định thiết kế này, quá trình này thường được có lợi từ cơ hội chắc chắn và sự kiên trì của các nhà nghiên cứu trong việc phát triển từ một dữ liệu đến phân tử chắc chắn, chẳng hạn như Miguel A. Ondeti và Emily Soba với Succinyl – L – Proline , dẫn chất phát triển cho hoạt chất Captopril, hay Albert Carr với chất chuyển hóa của Terfenadine.

Trong những năm 1960 – 1970, máy móc mới đã được phát minh phục vụ trong khám phá thuốc bao gồm máy cộng hưởng từ hạt nhân (NMR), máy sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). Nhằm mục đích khiến phòng thí nghiệm trở nên “khô ráo” hơn, máy tính đã được đưa vào nhằm giải quyết những phép tính phức tạp như phép chuyển Fourier và lưu trữ cơ sở dữ liệu đã sử dụng nhằm so sánh những hoạt chất mới với những phân tử tham chiếu và những kết quả phân tích từ những thử nghiệm lâm sàng lớn. Việc áp dụng các máy móc hỗ trợ và máy tính cũng được quy định tại một số điều luật mới.

Bắt đầu những năm cuối của thập niên 1950, ngành công nghiệp Dược phải đối mặt với cuộc điều tra kéo dài về chính sách giá cả và marketing do cựu Thượng nghị sĩ EstesKefauver (D-Tenn) dẫn đầu. Kefauver đã thu hút sự chú ý của mọi người vào sự chênh lệch lớn giữa giá nguyên liệu đầu vào và giá thành phẩm thuốc; các phiên điều trần của ông ấy trước Quốc hội cũng chỉ ra nhiều phương pháp marketing bất lợi.

Cùng thời điểm đó, thảm họa Thalidomide xảy ra (một loại thuốc giảm đau, an thần, hỗ trợ giấc ngủ, hỗ trợ rất tốt trong thời kỳ “ốm nghén” của phụ nữ mang thai được bán rộng rãi ở châu Âu, Nam Mỹ và các vùng của châu Á đã gây ra dị tật bẩm sinh nghiêm trọng cho hơn 10000 trẻ em trên toàn thề thế giới) đã thu hút sự chú ý đến việc kiểm tra lâm sàng không đầy đủ và việc giám sát theo quy định trước khi ra thị trường của các loại thuốc mới.

Tại Đức – nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ thảm họa Thalidomide. Một đạo luật về đăng ký thuốc mới năm 1961 đã được tăng cường vào năm 1964 nhằm yêu cầu tình trạng kê đơn cho các loại thuốc mới. Tuy nhiên, tính hiệu quả và an toàn về thuốc vẫn chưa được ban hành tại Đức mãi cho đến năm 1976.

Tại Anh, Bộ Y tế đã đối phó với thảm họa bằng việc thành lập Ủy ban an toàn thuốc (viết tắt là CSD) vào năm 1963. Dù đã làm việc với chính phủ, nhưng CSD vẫn không phải là cơ quan có trách nhiệm quản lý, kiểm soát giai đoạn trước hoặc trong quá trình thử nghiệm lâm sàng. Năm 1968, một cơ quan cấp phép của quốc gia đã được thành lập bắt đầu tiến hành áp đặt lệnh kiểm soát trên thị trường đối với loại thuốc mới thuốc Ủy ban an toàn thuốc.

Dù Thalidomide không được bán ở Mỹ, nhưng những báo cáo về dị tật ở Châu Âu đã khiến Quốc hội nhanh chóng ban hành điều luật mới. Trong khi Kefauver đã đề xuất việc cấp phép song song bắt buộc của bằng sáng chế thuốc, giới hạn giá và hạn chế tiếp thị nhằm nỗ lực hạ giá thuốc, thì đạo luật cuối cùng chỉ liên quan tới những tiêu chuẩn an toàn và hiệu quả.

Sau khi thông qua bản sửa đổi của Kefauver-Harris đối với đạo luật Thực phẩm, Thuốc và Mỹ phẩm năm 1962, FDA đã ban hành hướng dẫn chi tiết các phương pháp đã được thử nghiệm lâm sáng, thực hiện các phương pháp định lượng nghiêm ngặt nhằm đánh giá ứng dụng của thuốc và bắt đầu sử dụng quyền hoãn hoặc loại bỏ ứng dụng của thuốc mới

Nhằm đối mặt với thảm họa Thalidomide và các quy định tiếp theo, các công ty dược phẩm đã đầu tư nhiều nguồn lực hơn vào thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng. Các thử nghiệm trước đây được thực hiện trên dân số hàng chục hoặc hàng trăm bệnh nhân sau đó tăng lên hàng nghìn. Tuy nhiên trong vòng một thập kỷ kể từ khi Bản sửa đổi của Kefauver-Harris được ban hành ở Mỹ, các công ty lớn và các chương trình thử nghiệm nghiên cứu đã than phiền về số lượng thuốc mới được lưu hành trên thị trường bắt đầu giảm đáng kể. Họ bắt đầu đa dạng hóa các lĩnh vực kinh doanh khác như thiết bị y tế, chẩn đoán, quang học, mỹ phẩm, thực phẩm và hàng gia dụng. Các công ty của Mỹ đã tăng doanh thu ở nước ngoài và mở rộng các phòng thí nghiệm mới ở Châu Âu, Nam Mỹ và Châu Á.

Giai đoạn năm 1960 – 1980 cũng chứng kiến những thách thức đối với thẩm quyền của ngành y dưới những lời chỉ trích nữ quyền về chế độ gia trưởng, việc xuất bản cuốn sách “Our Bodies, Ours yourself” (1973) của Boston Women’s Health Book Collective, và mở rộng các tổ chức liên quan đến bệnh tật cho các rối loạn và ung thư ở trẻ em. Đây cũng là thời đại mà “thuốc viên” – thuốc tránh thai – trở thành một thuật ngữ phổ biến như biện pháp kiểm soát sinh sản dựa vào thuốc liên quan đến những thay đổi đáng kể của xã hội.


Nguồn tham khảo:

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
error: Content is protected !!